Tết từ xưa đã là điều hệ trọng lớn nhất trong năm của người Việt. Khi mà tất tả một năm dọc ngang ở ngoài phố thị, Tết cho người ta một cái duyên cớ để quay về. Vì thế, chẳng mấy ai về ăn Tết mà lại về tay không, có người đem thành tựu, có người đem của cải về nhà... Nhưng tựu chung lại, vẫn là cố gắng mang về những sự tự hào, sự hạnh phúc hay nhìn rộng rãi ra hơn, đó là những niềm vui.
Người ta có cả ngàn cả vạn cách biểu hiện niềm vui ngày Tết, là việc dùng những màu sắc bắt mắt như đỏ, vàng, cam trên từng món trang trí; hay như chơi mai vàng, chơi đào thắm. Khối màu sắc đặc trưng của mùa Xuân vốn dĩ sinh ra để kích thích não bộ sản sinh ra sự hứng thú và phấn khởi, vì thế mùa Xuân đến sau mùa đông như một chút tiên dược làm bừng tỉnh sức sống sau chuỗi ngày u ám xầm xì.
Bởi nói mùa Xuân là cái tốt đẹp sau cùng, rằng con người ta dù vật vã hay vẹn tròn trong một năm, vẫn sẽ được đất trời ưu ái cho thưởng xuân thêm nhiều lần nữa. Có ai từng thắc mắc, tại sao mùa xuân lại là mùa đầu tiên không? Có lẽ đất trời muốn chúng ta khởi đầu mọi thứ bằng những niềm vui, niềm tin và cả những khát vọng tràn trề. Và chúng ta, những người trần mắt thịt, nhào nặn những ưu ái đó ra dáng hình của văn hoá bản sắc, để từ đó, Tết ra đời để hữu hình hoá cái quà tặng “niềm vui” của tạo hoá.
Quá 23 Tháng Chạp, chúng ta dù bận tới mấy cũng cố tách bóc sự ưu ái ra khỏi công việc, để một phần ngắm nghía và chú tâm tới những đổi thay của thị trường ngày cận Tết. “Đói hôm giỗ cha/No ba ngày Tết”, dù trong năm có bê tha đến đâu, Tết nhất mâm cơm cúng cũng phải đủ đầy cho Tiên Gia đỡ tủi lòng, âu cũng là để con cháu yên tâm với âm phần được chu toàn vẹn nghĩa.
Ba tôi từng kể, ở cái thời còn cố gắng để ăn cho no, mặc cho ấm; Tết bao cấp là những tháng ngày khi pháo hoa nổ ở trên đỉnh đầu vẫn cố gắng đạp chiếc xe Thống Nhất muốn thục mạng từ nhà máy về trên con đường ruộng nhão nhoét bùn đất thấm mưa phùn, để kịp mang về nhà cho vợ con một cành đào Tết. Ngày đó, Tết, hay niềm vui, chỉ kịp xuất hiện lúc mà cả nhà có mặt đông đủ.
Ngày nay, đã qua rồi cái thời ăn no mặc ấm, người ta dần tiến tới việc ăn ngon mặc đẹp, khi mà công nghệ máy móc giúp con người có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn. Tết nay cũng vậy, không còn là một thứ khiến con người ta quá bận rộn nữa, nên mới có rềnh rang thời gian để chăm chút và tìm kiếm những niềm vui. Ngày xưa Tết là đêm 30 ba kịp đi làm về, ngày nay Tết ngày càng đến sớm, chẳng phải đợi cho đến khi cành đào đầu tiên được mang về đến nhà, hay những cơn mưa xuân kịp nhắc nhở, chúng ta bây giờ được cho một khoảng thời gian háo hức với Tết bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, khi công việc “sắm Tết” bắt đầu được tiến hành.
Trước đây, cái thuở còn mải miết ăn bữa nay xong thì lo bữa mai, người ta trước cả một tháng đã phải chi li tính toán trước từ sớm để cần và nên mua gì do nguồn cung hạn chế, từ miếng thịt thủ, miếng mỡ lợn, con gà trống... Giờ đây, đến cây nem, khoanh giò cũng đã được các nơi chế biến đua tranh về mặt chất lượng, hương vị để chiều lòng mọi thực khách. Người ta giờ cũng chỉ phải lo tới những món “to tiền” như tân trang nhà cửa, sắm sửa tiện nghi mới, nhất là những món giải trí tại gia. Đó, hết lo những thứ căn bản, người ta dần lo tới việc làm sao để vẹn tròn cảm giác “vui” của ngày Tết.
Thói sắm sửa bây giờ không chỉ để ban thờ được xum xuê, mà còn cốt trưng diện sự “phát đạt” của mỗi nhà. Căn nhà rực rỡ đào trong mai ngoài, cũng được kẻ qua người lại tán tụng rằng “bằng năm bằng mười năm ngoái”. Mát tai mát lòng là thế, cũng là gửi gắm chút hy vọng tân niên tiếp tục hanh thông phát triển. Thế đó, Tết dù ở thời nào, cũng là niềm vui, là chuẩn bị niềm vui và là cả những ước mong về niềm vui.
Người Việt mình gửi gắm ước nguyện vào mọi dáng hình của Tết:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”
Câu ca dao tục ngữ quen thuộc nhất về tục sắm sửa trang hoàng ngày Tết đã cho thấy sự đan quyện giữa các vật phẩm cúng lễ trong Gia Tiên, đồng thời mỗi vật phẩm cho ta biết một mục đích cụ thể của chúng. Nhân gian dâng lên ông bà tổ tiên những sản vật mà đất trời ban tặng, của thiên trả địa, rồi lại đem những thành quả lộng lẫy nhất của một năm cố gắng để kính cẩn nghiêng mình, quyện hoà trong làn hương trầm nghi ngút đẩy đưa những nguyện cầu chân thành về một năm mới với nhiều thắng lợi mới.
Ngũ Hành trên mâm ngũ quả với màu xanh của chuối (mộc), màu vàng của bưởi hoặc phật thủ (thổ), màu đỏ của trái ớt hay đỏ pha cam của trái quýt, quất (hỏa)… hoặc các yếu tố đồng âm như ở miền Nam với mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài tượng trưng cho “cầu sung vừa đủ xài”. Trên bàn thờ luôn có bộ tam sự, ngũ sự, đèn nến… được cọ sạch, những nhà dòng dõi mở tấm nhiễu điều hay rèm che bài vị tổ tiên, bát hương có thể được “bao sái” (dùng nước thơm lau sạch xung quanh bát hương, dọn bớt chân nhang), sẵn sàng cho việc bày biện cúng tổ tiên đầu năm.
Hai bên bàn thờ có khi đặt những cây mía dài tượng trưng những chiếc thang để tổ tiên xuống trần ăn Tết. Văn hoá tập tục dù biến chuyển linh hoạt theo thời thế, vùng miền, vẫn không thoát ly khỏi những nguyện ước ban sơ về một cái Tết sum vầy, có đủ đầy thế hệ, con cháu hàn huyên, ông bà mạnh khoẻ, gia đình sung túc an khang, hay tóm gọn lại, là sống một đời bình an.
“Một năm có hẳn 365 ngày để lựa chọn vui buồn, vì thế đừng bao giờ lựa chọn buồn vào ngày Tết”, mẹ tôi đã nói vậy khi bản thân trải lòng về một năm đằng đẵng trong một buổi chiều cuối năm. Tết nhất là không được phép bần hàn. Cũng tại lẽ đời đã vậy nên Tết giống như một cái mốc để người ta biết sắp gần ngày đó để tự giác dọn dẹp hết bộn bề đã tất tưởi, làn nước lá mùi đằm thắm gột rửa mọi phiền lo, cho tâm can thư thái và thanh sạch, để tiếp tục tự cho bản thân cái quyền được chờ đợi vào những cái tốt đẹp sang năm.
Mọi người hay đùa nhau bằng cụm từ “xé nháp” mỗi khi năm hết Tết đến, vì người ta biết Xuân bao dung, nên cho chúng ta được thêm một cơ hội gỡ gạc trong 365 ngày kế tiếp. Nên ai ơi, sao không bỏ lại phiền muộn sau lưng, hà cớ gì mà không hòa vào niềm vui của đất trời, bởi vì còn Tết nghĩa là còn hy vọng…