Tết Nguyên đán, một cái Tết tràn đầy hương vị truyền thống, là niềm háo hức không thể tả xiết của biết bao trẻ thơ. Những đôi mắt tròn xoe, long lanh ánh lên niềm vui tột độ khi nghĩ đến ngày được diện những bộ quần áo mới tinh tươm, được nhận những phong bao lì xì đỏ thắm và cùng bạn bè nô đùa suốt ngày. Thế nhưng, đằng sau những nụ cười hồn nhiên ấy là những nỗi lo toan, bận rộn của bao gia đình trong những năm tháng đất nước còn bao cấp.
Chuyện một thuở ngày xưa không thể quên
Tết năm 1975 và những năm sau đó đời sống khó khăn vô kể. Thời bình, mạng lưới mậu dịch phát triển rầm rộ, các loại tem phiếu với đủ hạng mức ra đời. Cửa hàng chất đốt, cửa hàng ăn uống, quầy thịt, dịch vụ xay bột, dịch vụ cắt tóc… mọc lên như nấm nhưng vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu thiết yếu.
Đối với người Việt Nam, Tết Nguyên Đán là lễ trọng nhất trong năm. Nhà nào cũng cố sắm cái Tết cho thật tươm tất dù trong phải ăn bo bo, nước ruốc… Trên bàn thờ phải có hoa, nải chuối, bánh chưng, bánh tét. Đây không chỉ là một món ăn mà hồn vía Tết. Tết phải có đĩa bánh, mứt, kẹo để tiếp khách. Phải có cành mai, cành đào cắm trong nhà.
Thiếu thốn, khổ cực nhưng Tết đến cứ phải ăn Tết. Dân thời bao cấp, ngày thường chạy ăn từng bữa nhưng vẫn cợt đùa tếu táo, chế lời hát thật vui. Miếng ăn phải tính toán thật “khoa học” để có thể “cho ngày nay, cho ngày mai, cho… hai ngày sau”.
Người Hà Nội kể nhau rằng, dù công việc cuối năm ở các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp có bận rộn đến mấy, các ông bố bà mẹ vẫn luôn dành thời gian quý báu để đưa con em mình đi sắm Tết. Dù phải thức dậy từ tờ mờ sáng, xếp hàng dài dưới cái nắng chói chang để mua được vài cân thịt, vài cân gạo, nhưng khi chiều đến, các bậc phụ huynh lại tất bật đưa con đến những cửa hàng bách hóa hay những phố vải nổi tiếng như Hàng Đào, Hàng Ngang.
Cả năm ăn mặc giản dị thế nào cũng được, nhưng ngày Tết, trẻ con Hà Nội nhất định phải có một bộ quần áo mới thật đẹp. Niềm vui của các em không chỉ đến từ những bộ quần áo mới mà còn từ việc được cùng bố mẹ dạo phố, được ngắm nhìn những ánh đèn lồng lung linh, được hít hà mùi thơm của bánh chưng, bánh dày.
Lúc bấy giờ, khi đất nước còn chìm đắm trong những khó khăn sau chiến tranh, đồng lương ít ỏi chỉ đủ để trang trải cuộc sống hàng ngày. Thế nên, mỗi khi Tết đến, nỗi lo toan lại bao trùm lên mọi gia đình. Việc chuẩn bị đón Tết trở thành một bài toán khó, đòi hỏi sự tính toán kỹ lưỡng. Mua sắm, trang trí nhà cửa, quà cáp nội ngoại, nhưng “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Ngoài tem phiếu cắt ô hàng tháng thì mỗi hộ dân còn được Nhà nước phân phối gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn để gói bánh chưng, thêm một túi đựng vài lạng bóng, miến dong, bánh đa nem, mộc nhĩ, hạt tiêu (số lượng tùy theo hộ đông người hay không).
Có nhiều thứ ngày Tết mới được mua như: Túi hàng Tết gồm có ít bóng bì, măng khô, miến, lá nem, mì chính, hạt tiêu, lá dong... rồi hộp mứt Hà Nội, gói chè Ba Đình, chai rượu chanh Thanh Mai, gói kẹo mềm (mà rất cứng) và có cả một bánh pháo Trúc Bạch. Không phải mua một lúc, một nơi mà có ngay tất cả. Phải xếp hàng để mua từng thứ từ cả chục ngày trước Tết, khi những quầy hàng Tết của mậu dịch được mở ra. Có khi phải dậy sớm đi xếp hàng từ 5 giờ sáng, chờ tới lúc mở cửa để mẹ ra mua hàng vì trẻ con không được cầm tiền và tem phiếu, nhỡ đánh mất là cả nhà năm đó không có Tết. Xếp hàng là sự bận rộn, nhưng cũng là niềm vui của bọn trẻ thuở ấy.
Ngược dòng thời gian, giữ hồn Tết Việt
Dù khó khăn thiếu thốn nhưng ngày Tết vẫn là câu chuyện trọng đại trong năm. Từ già đến trẻ, trai gái đều háo hức mong chờ Tết đến được ăn đồ ngon. Dù phải xếp hàng từ sáng sớm chen chúc nhau chỉ để mua được hộp mứt thập cẩm, vài lạng đậu xanh để gói bánh chưng, vài lạng thịt, ít mì chính, măng khô. Nhưng từng đó thôi cũng đủ để mọi người háo hức. Trẻ con thì mong chờ được may áo mới, được ăn chiếc kẹo đường, bánh quy gai mà cả năm mới được thưởng thức.
Có người bảo thời bao cấp quanh năm là lo toan vất vả chỉ ba ngày Tết là sung túc. Thế nhưng khi quá khứ đã ở lại sau lưng, trong tâm trí nhiều người bất chợt trào dâng nỗi nhớ về kỷ niệm của một thời gian khó lại ùa về. Trong vô số sự kiện gây sung sướng thời bao cấp thì Tết là sự kiện sung sướng hơn cả.
Tết là ngày sum họp gia đình trong cả một năm. Ngày Tết, nhà nào cũng đông đủ và quây quần nhất. Các gia đình đều cố gắng có hai bữa cơm chung là chiều Ba mươi và sáng mồng Một Tết. Thời gian còn lại đi chúc Tết họ hàng, bạn bè, có khi còn sang chúc Tết nhà hàng xóm xung quanh. Đất nước thời bao cấp người không thật đông, phương tiện đi lại ít nên trong mấy ngày Tết, đường phố thường vắng vẻ, không khí thoáng đãng. Người lớn nói với nhau rất nhẹ nhàng và trẻ con chúng tôi cũng phải như vậy.
Ngày ấy, người ta chỉ mừng tuổi chủ yếu cho con cháu trong nhà và các cụ già, số tiền chỉ là ước lệ. Nhiều khi là mừng tuổi bằng mấy quả pháo tép. Thời bao cấp hồi chiến tranh, vật chất ít nhưng mọi người trọng tinh thần và luôn tôn trọng, nhường nhịn nhau, nhất là trong mấy ngày Tết. Vì thế, ai cũng mong Tết và nhớ Tết khi đến độ xuân về.
Năm 1986, một dấu mốc lịch sử đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ bao cấp, mở ra một chương mới cho đất nước. Đối với người dân, đặc biệt là những thế hệ lớn lên trong thời kỳ này, dường như có không ít người bỡ ngỡ. Mấy chục năm sống trong một nền kinh tế tập trung, mọi nhu cầu từ ăn mặc, ở đến Tết đều được nhà nước phân phối, đã trở thành một thói quen khó bỏ.
Thế nhưng sự chống chếnh ấy cũng nhanh chóng qua đi. Giờ đây nếu nói tới hình ảnh xếp hàng từ nửa đêm sắm đồ ngày Tết thời bao cấp xưa hẳn nhiều người sẽ thấy rất khôi hài. Hình ảnh những hàng dài người xếp hàng từ nửa đêm để mua được vài cân gạo, vài lạng thịt, hay những buổi chiều tất bật đi chợ để tìm mua những món đồ trang trí Tết thật giản dị. Đó không chỉ là những hình ảnh quen thuộc mà còn là cả một bầu trời ký ức về một thời kỳ đã qua.
Tất cả những câu chuyện đó đã trở thành quá vãn thành kỉ niệm mang nhiều sắc thái chua xót lẫn ngọt ngào mừng vui hòa tiếc nuối.