Tết về, mang theo những nỗi nhớ xa xăm của nhiều mùa Tết xưa cũ. Dường như, mỗi cái Tết qua đi đều để lại trong lòng con người ta thêm nhiều kỷ niệm. Rồi cứ thế, những kỷ niệm tích tụ thành dòng, in vào trong tiềm thức và mỗi mùa Tết mới lại không thể thiếu bóng dáng của những cái Tết đã qua.
Tết cổ truyền của người Việt có nguồn gốc từ rất lâu, là dịp đánh dấu thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Tết mang đến một mùa Xuân mới, đầy niềm tin và những hy vọng tươi đẹp. Càng gần Tết, không khí càng rộn ràng, náo nức. Đôi bàn tay của mẹ bộn bề mâm cỗ, đôi bàn tay tỉ mẩn tỉa cây của bố và đôi bàn tay búp măng của em bé hân hoan xòe ra nhận những bao lì xì đỏ tươi.
Dịp lễ cổ truyền ấy gieo vào lòng con người ta sự biết ơn với đất trời bất kể cuộc sống có đang thiếu thốn hay sung túc. Tết về đem theo cái rét đậm cùng mưa phùn lâm thâm, tịch mịch cùng không khí bồi hồi của cảnh người sum vầy trông nồi bánh chưng, của bánh pháo Tết nổ giòn giã. Trong ba ngày Tết ấy, trọng tâm vẫn là những mâm cỗ. Chẳng thế mà người xưa đã đúc kết "no ba ngày Tết".
Thời xa xưa, khi cái Tết của người Việt còn trọng nhiều nghi lễ, nhiều điều kỳ công, thì mâm cỗ ngày Tết cũng không hề đơn giản. Điều căn bản nhất, là mâm cỗ dâng lên bề trên phải đủ bốn bát bốn đĩa cho tỏ lòng thành kính. Bốn bát ấy thường gồm một bát canh măng chân giò lơ thơ vài sợi miến, một bánh canh bóng thả đương vụ xúp lơ, cà rốt đang vào vụ ngon, một bát miến nấu lòng gà thơm phức, một bát canh vây nấu từ bong bóng cá, ruột cá hoặc vây cá, vây yến. Thời quá vãng, canh vây là món của những gia đình có tài sản bởi nguyên liệu quý hiếm. Những gia đình khiêm tốn hơn thường thay thế món ăn này thành bát chim câu tần hạt sen hoặc canh mọc.
Bốn đĩa thì không thể thiếu đĩa xào hạnh nhân cho người già nhắm rượu, đĩa mọc vân ám mà nay đã thất truyền, đĩa bánh chưng xanh dền và đĩa thịt gà luộc vàng ươm. Ngoài ra, đĩa giò lụa, giò xào, chả quế, xôi gấc, rau củ quả xào... cũng góp phần làm tăng thêm độ linh đình của mâm cỗ Tết. Tưởng nhiều món mà chẳng thừa chút nào.
Bởi thời ấy, nhà nào mà chẳng đông con cháu, Tết nào mà chẳng sum vầy đông đúc. Mâm cỗ cứ thế hết veo. Người lớn mời nhau vài ly rượu ấm, trẻ em háo hức chờ ăn cơm. Mà bữa cơm Tết chao ôi nó ngon lành, đầm ấm. Chút cơm gạo tám thơm chan với nước canh măng ngọt lịm khiến ai nấy đều cười tươi rạng rỡ.
Chiều 30 Tết xưa, các nhà đã phải sẵn sàng nồi bánh chưng. Bánh được vớt ra từ sớm và treo lên cho ráo. Cây đào cây quất trong nhà cũng được trưng lên đẹp đẽ, sáng ngời. Hai bánh pháo treo trước cửa nhà cho thời khắc giao thừa thiêng liêng, ý nghĩa. Trong bếp lúc này, không khí mới thật tất bật. Từng chồng bát đĩa mới được giấu đi, chỉ chờ dịp Tết mới đem ra đánh rửa bóng loáng và dùng cho mấy ngày đầu năm.
Tết xưa là thế, mọi sự chuẩn bị đều được tính toán kỹ càng. Mỗi người mỗi việc, bà lúi húi nếm lại nồi canh măng, mẹ thái giò, chị bóc bánh chưng... Chẳng ai dám trễ nải, ngơi tay vì giờ cơm tất niên đã tới gần. Bữa cơm cuối cùng của năm, đánh dấu một năm làm việc, lao động chăm chỉ. Mọi người quây quần ăn bữa cơm, vừa như một cách để nghỉ ngơi, vừa để động viên, dặn dò nhau trước khi bước sang năm mới.
Tết nay, nhờ cuộc sống hiện đại, công nghiệp hóa và thói quen tiêu dùng lên ngôi, mọi sự tất bật ngày Tết cũng dần khác trước. Ngày nay, ở thành phố, ta ít bắt gặp cảnh hối hả gói bánh chưng, gói giò, chuẩn bị mâm cỗ từ tờ mờ sáng. Mọi thứ đều sẵn ở chợ, ở siêu thị, thậm chí chỉ cần một cuộc điện thoại là "shipper" giao tới tận nơi. Nhiều người nội trợ có dịp nghỉ ngơi đúng nghĩa và cũng bớt đi những lệ xưa thói cũ.
Tết nay, người ta trọng sự thoải mái, vui chơi hơn những tục lệ "phải có" thời xa xôi. Vòng quay mới của đất trời, của đời sống hiện đại xô bồ kéo con người ta vào nhiều căng thẳng. Tết với nhiều người là cơ hội đi du lịch, đi xả hơi và tạm lánh đời. Lúc này, ba bữa cơm một ngày trong ba ngày Tết không còn là gà luộc, canh măng mà có khi là... miếng pizza, đĩa mì Ý hay một bữa ăn fine dining sang trọng. Cũng đủ ấm áp đấy, cũng thật tận hưởng và đúng thời, thậm chí là thời thượng.
Tết của người trẻ và cả những người lớn hiện đại, hòa nhập, đã không còn câu nệ bốn bát bốn đĩa, mâm cao cỗ đầy hai người bê không ngớt tay. Bây giờ đây, mâm cỗ cũng có phần tối giản. Vẫn là đĩa bánh chưng, đĩa gà luộc, bát canh măng và bát miến là xong bữa. Có cái gì đấy vẫn thật Tết, thật cổ truyền mà lại nhẹ nhàng biết bao. Sự chuyển dịch âm thầm này là điều không thể tránh khỏi khi cuộc sống ngày càng có nhiều điều mới lạ du nhập vào. Cái Tết chợt nhẹ bẫng, nhạt nhòa và đôi lúc người ta quên mất rằng cái Tết đã từng khiến họ háo hức tới nhường nào.
Sau tất cả, cái Tết cổ truyền lại một lần nữa sống dậy với hương vị đằm thắm và giá trị thiêng liêng của nó. Hương vị Tết xưa là thứ ta không thể bắt chước, cũng không thể tái hiện, chỉ có thể tìm mọi cách thực hành lại theo chút hồi ức còn sót lại trong trí nhớ. Tết và giá trị cao nhất của nó chính ở sự sum vầy đầm ấm khi ngoài trời đang giá rét và từng mầm xuân đang đâm chồi nảy lộc. Lúc ấy, sao thiếu được một mâm cỗ nóng hổi và bánh kẹo, trái cây, nước ngọt tràn đầy.
Chẳng phải nghiễm nhiên, người ta gọi hành động trong những ngày Tết là "ăn Tết". Trải qua bốn nghìn năm lịch sử, từ cái Tết cổ xưa nhất khi người ta vẫn cúng bánh chưng bánh dày cho đủ một cặp đất trời để dâng lên bề trên, cho tới những bữa yến tiệc Tết thịnh vượng tràn đầy của ngon vật lạ, quy tắc “bốn bát bốn đĩa” đôi khi đã phải nhường bước trước sự linh đình, xa xỉ, hoặc những mâm cỗ Tết độc đáo, phá cách của thời nay. Biết bao hình thái, bao phiên bản và bao nhiêu sự sáng tạo của trí óc con người, nhưng cái cốt lõi cuối cùng vẫn là "ăn Tết". Đó như một cách khẳng định rằng, con người không thể nào thiếu đi việc "ăn" trong dịp trọng đại của trời đất, của lịch niên, của quan niệm của người dân sống với thói quen lúa nước.
Cũng chính vì thời xa xưa gắn liền với đời sống lúa nước, người Việt mình cũng phải tìm cách ăn Tết sao cho phù hợp, nương theo đất trời, mùa màng, khí hậu... Lại lấy ví dụ như bát canh măng sao lại hợp với bữa cơm Tết đến thế. Vì măng thấm đẫm hương vị của đất, của thời gian, chỉ ngon nhất vào mùa đông xuân. Lúc này, lấy từng miếng măng lưỡi lợn khô giòn mà đem ngâm vào nước gạo cho nở mềm, rồi đem nấu với thịt chân giò lợn, thì thử hỏi có gì ngon và hợp hơn.
Bát canh măng mà ăn vào mùa Hè, thì lại dở, vì măng khi ấy nhạt thếch, thịt thà mau ngán, sẽ chẳng thể so được với không khí lạnh buốt tới xương, từng muỗng canh măng thơm sánh vị thịt trôi xuống cuống họng khiến con người ta không thể nào quên. Cũng mùa Tết ấy, ăn miếng bánh chưng dẻo dền vị nếp nương, với nhân thịt mỡ thơm, đậu xanh béo nó mới đúng vị làm sao. Hay đĩa thịt đông, dưa hành cũng khiến bữa cơm Tết trở nên đặc trưng hơn. Vậy là chuyện ăn Tết cũng không thể bừa phứa, phá cách quá mức, mà vẫn nên nương theo những điều hợp lý sao cho hài hòa cả xưa và nay.
Mỗi dịp Tết về, ta cảm nhận rõ rệt hơn sự giản tiện của bếp núc, của bữa cơm. Nhưng dù cho các món ăn có được bớt đi, mâm bát có nhẹ lại, thì vai trò và giá trị thiêng liêng của mâm cỗ Tết vẫn là thứ chúng ta cần giữ. Tâm hồn mỗi người, niềm vui và hạnh phúc của mỗi nhà trong cảnh xuân sang đâu thể thiếu đi giá trị tinh thần này.