Gác kèo ong ở “vùng đất cuối trời”
Nghề gác kèo ong, một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, đã tồn tại hàng trăm năm và gắn liền với cuộc sống của nhiều cư dân dưới tán rừng U Minh Hạ. Đây không chỉ là một nghề mưu sinh mà còn là một nét văn hóa đặc sắc, thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa con người và thiên nhiên.
Nghề gác kèo ong ở U Minh Hạ có lịch sử hình thành từ rất lâu đời. Theo các tài liệu lịch sử, nghề này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, khi những người dân đầu tiên đến khai hoang vùng đất U Minh Hạ. Ban đầu, việc khai thác mật ong chỉ mang tính tự phát, nhưng sau đó, người dân đã dần dần tích lũy kinh nghiệm và hình thành nên nghề gác kèo ong.

Tồn tại hàng trăm năm, nghề gác kèo ong – di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, gắn liền cuộc sống nhiều cư dân dưới tán rừng U Minh Hạ.
Mỗi khi hoa tràm rừng U Minh Hạ bung nở, cả khu rừng như bừng sáng, khoác lên mình một tấm áo trắng tinh khôi, và cũng là lúc những đàn ong mật từ khắp nơi tìm về đây làm tổ, tạo nên một bản giao hưởng tuyệt vời của thiên nhiên.
Từ xa xưa, những người dân nơi đây đã quan sát và phát hiện ra một tập tính thú vị của loài ong mật. Chúng thường chỉ làm tổ ở những thân cây nghiêng, chênh vênh, giống như hình dáng của những kèo nhà. Có lẽ, chính từ sự quan sát tinh tế này mà những người tiền nhân đã nảy ra ý tưởng độc đáo: làm nhà để dụ ong mật tới.

Các tiền nhân phát hiện ra tập tính chỉ làm tổ của ong mật ở những thân cây nghiêng như kèo nhà. Từ đó họ làm nhà để dụ ong mật tới
Trải qua hàng trăm năm phát triển, nghề gác kèo ong đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của vùng đất U Minh Hạ. Những người thợ gác kèo ong không chỉ là những người lao động cần cù, sáng tạo mà còn là những nghệ nhân, những người gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương.
Giữa tháng 11 âm lịch, trước khi những cơn mưa muộn cuối mùa trút xuống, người thợ ong sẽ đi vào rừng tìm chỗ gác kèo để “xây nhà”, đón hướng ong về làm tổ.
Hệ thống kèo gồm hai cây cắm xuống mặt đất và một cây kèo gác bên trên. Cây cao hơn gọi là cây nống, cây thấp gọi là cây nạng và cây gác lên trên gọi là kèo. Theo nhiều nghệ nhân làm nghề này chia sẻ nghề này thấy đơn giản nhưng không dễ bởi đòi hỏi kỹ thuật cao khi gác kèo, không phải ai gác kèo ong cũng đến làm tổ.
Cây tràm được chọn phải suôn, đường kính 10-15 cm, lột sạch vỏ, phơi khô, bào láng. Cây kèo là nơi để ong về làm tổ và gánh toàn bộ trọng lượng của tổ nặng 10–20 kg. Ngoài biết cách làm kèo, việc chọn địa điểm gác cũng quan trọng không kém. Vị trí làm kèo tốt nhất ở nơi cây tràm thấp nhiều bông, có ánh nắng mặt trời chiếu xuống thân kèo.
Người gác kèo phải biết cách lấy hướng mặt trời, gió phù hợp để đảm bảo ong về làm tổ. Sau 15-20 ngày kể từ khi xuống làm tổ, ong sẽ cho đợt mật đầu tiên. Sau đó, khoảng 10-15 ngày lấy được một đợt mật. Chỉ sau khoảng nửa tháng ong làm tổ đã có thể thu hoạch mật ong lần đầu tiên, người địa phương thường gọi là đi “ăn ong”. Một tổ ong một năm thu hoạch được 6 lần, mỗi lần từ 3 - 4 lít mật. Mật ong thu hoạch từ mùa nắng được xem là thứ mật tốt và giá trị nhất. Theo đó, mật ong rừng U Minh Hạ có hai mùa: mùa nước (mùa mưa) từ cuối tháng 5 đến tháng 8 âm lịch, mùa hạn từ tháng 10 đến tháng 3 âm lịch.

Người thợ chọn hướng gió, ánh nắng mặt trời, đường bay của ong, gác kèo chếch cỡ tầm đầu người. Đặc biệt, gác phải đúng kỹ thuật ong mới chịu làm tổ và cho mật nhiều
Thời tiết tại U Minh Hạ được chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, mùa mưa kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Du khách có thể tham quan Vườn Quốc gia này vào mọi thời điểm trong năm, nhưng để trải nghiệm đi “ăn ong", bạn nên đến vào thời điểm từ cuối tháng 5 đến tháng 8 âm lịch hoặc từ tháng 10 đến tháng 3 âm lịch.
Để đến được khu rừng tràm U Minh Hạ, nơi những đàn ong cần mẫn xây tổ, có hai con đường để bạn lựa chọn: hoặc là trekking theo lối đường mòn len lỏi giữa rừng cây, hoặc là ngồi lên những chiếc vỏ lãi - một phương tiện di chuyển đặc trưng của miền Tây sông nước.

Trải nghiệm thăm quan miền Tây sông nước
Nếu bạn là người yêu thích khám phá và muốn hòa mình vào thiên nhiên, trekking đường mòn sẽ là một trải nghiệm tuyệt vời. Những con đường mòn nhỏ nhắn uốn lượn dưới tán rừng tràm xanh mát, đưa bạn đi sâu vào trái tim của khu rừng. Bạn sẽ được tận mắt ngắm nhìn những hàng cây tràm cao vút, những loài cây dại mọc xen kẽ, và lắng nghe tiếng chim hót líu lo trên cành cây.
Điểm thú vị của trekking là bạn có thể tự do khám phá những góc khuất của rừng tràm, tìm hiểu về hệ sinh thái đa dạng và phong phú nơi đây. Bạn có thể bắt gặp những loài động vật hoang dã như khỉ, vượn, nai, heo rừng... hoặc những loài chim quý hiếm như cò, vạc, diệc...

Nếu bạn muốn di chuyển nhanh chóng và thoải mái hơn, vỏ lãi sẽ là lựa chọn phù hợp. Vỏ lãi, hay còn gọi là tắc ráng, là một loại thuyền máy nhỏ, dài hình thoi, gắn thêm máy ở đuôi. Đây là phương tiện di chuyển phổ biến ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vào mùa nước nổi.
Ngồi trên vỏ lãi, bạn sẽ được lướt mình trên những con kênh, rạch chằng chịt, len lỏi qua những hàng cây tràm xanh mát. Bạn sẽ được ngắm nhìn những ngôi nhà sàn đơn sơ của người dân địa phương, những chiếc cầu khỉ chênh vênh bắc qua kênh, và những cánh đồng lúa xanh mướt trải dài. Vỏ lãi không chỉ là phương tiện di chuyển mà còn là một phần của văn hóa miền Tây sông nước. Ngồi trên vỏ lãi, bạn sẽ cảm nhận được sự phóng khoáng, tự do và gần gũi với thiên nhiên của người dân nơi đây.
Trước khi đến gần khu vực ong làm tổ, bạn sẽ được phát một chiếc lưới trùm đầu. Riêng người thợ cầm thêm đuốc con cúi bằng xơ dừa, thùng nhựa và dao để hỗ trợ việc lấy mật dễ dàng hơn.

Với người thợ dày dạn kinh nghiệm, gác kèo xong là họ có thể đoán được khi nào ong đến ốp và thời gian nào quay lại để “ăn ong”
Lối vào tổ ong khá nhỏ, cả chiều rộng và chiều cao đều chỉ khoảng 1m. Trên chiếc kèo gác, đàn ong bu kín tổ mật không chừa một khoảng hở. Công đoạn đầu tiên là gây mê đàn ong, Người thợ châm lửa đốt đuốc con cúi (bùi nhùi làm bằng xơ dừa) đặt vào xô rồi để vào trong tổ. Bị say khói, đàn ong ùa ra đúng nghĩa cụm từ “ong vỡ tổ”, đập cánh rì rì bao quanh chiếc lưới trùm đầu của người thợ.
Khi ong tản ra hết, bạn có thể tiến lại gần quan sát tổ ong. Kích cỡ tổ và lượng mật thu được tùy thuộc vào lượng ong làm tổ và thời điểm đi “ăn ong”. Cây kèo ong làm tổ được hai người khiêng ra bãi cỏ gần nơi đỗ vỏ lãi để thưởng thức trực tiếp. Trên đường đi có thể vẫn còn những chú ong lưu luyến bám theo tổ mãi không rời.

Sau khi chuẩn bị xong mọi thứ, thợ “ăn ong” phải xóa hết dấu vết, vì bị động, ong sẽ không đến “ốp” (làm tổ)
Từng khoang hình lục giác bé xíu nằm xen kẽ trên mặt tổ như một cách sắp xếp hoàn hảo của tự nhiên. Viền tổ màu trắng, ngả vàng và chuyển nâu đậm dần về phía trung tâm do tập trung nhiều mật. Dùng tay nhấn vào tổ ong, lớp mật vàng óng, sóng sánh chảy ra. Dưới cái nắng chói chang, lớp mật như sáng bừng lên.
Những người ăn ong chuyên nghiệp họ không lấy hết phần tổ ong mà chỉ cắt khoảng 3/4 hoặc 4/5 tổ ong (tùy vào tổ lớn hoặc nhỏ) để ong có thể tiếp tục xây tổ trên nền tổ đã được cắt đi. Tổ ong sau khi được thu hoạch mang về có nhiều thành phẩm như mật ong, sáp ong, ong non, phấn ong.

Thợ “ăn ong” đang dùng bùi nhùi xua đàn ong để lấy mật
Mật ong là nguyên liệu quý trong y học, chế biến thực phẩm. Ong non là món ăn khoái khẩu của nhiều người có thể chế biến thành nhiều món ăn như: ong non nấu cháo, chiên bột, làm gỏi, mắm ong... Phấn ong có công dụng phục hồi sức khỏe rất có tác dụng cho người già, người suy nhược cơ thể. Sáp ong là phần xác tổ ong sau khi đã vắt sạch mật, có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất đèn cầy, đèn thắp sáng…

Mỗi thợ “ăn ong” sau mùa gác kèo thu về hàng trăm lít mật


Ngày 18/6/2020, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Cà Mau đã tổ chức Lễ công bố và trao Quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận Nghề gác kèo ong là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia cho đại diện UBND hai huyện U Minh và Trần Văn Thời. Việc công nhận Nghề gác kèo ong là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia đã tạo thêm động lực cho người dân địa phương tiếp tục gắn bó với nghề, có điều kiện phát triển kinh tế bền vững, góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ rừng, giảm nghèo của địa phương.