Trong những thập kỷ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Kim Nhật Thành, Triều Tiên đã trải qua một cuộc cách mạng xã hội sâu rộng. Một trong những thay đổi đáng kể nhất là việc đối xử với các phong tục tập quán truyền thống, đặc biệt là Tết Nguyên Đán.
Theo Korea Herald, Chủ tịch Kim Nhật Thành từng xem Tết Nguyên Đán như một "di tích của xã hội phong kiến". Quan điểm này xuất phát từ ý tưởng xây dựng một xã hội mới, một con người mới, hoàn toàn thoát khỏi những ràng buộc của quá khứ. Vì vậy, những lễ hội, phong tục tập quán mang đậm màu sắc truyền thống như Tết Nguyên Đán bị cho là lạc hậu và cần phải loại bỏ.
Để hiện thực hóa quan điểm này, vào năm 1946, chính quyền Triều Tiên đã chính thức công nhận ngày 1 tháng 1 dương lịch là ngày đầu năm mới. Quyết định này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử, chấm dứt truyền thống đón Tết Nguyên Đán của người dân Triều Tiên. Sau Chiến tranh Triều Tiên, việc loại bỏ Tết Nguyên Đán càng được đẩy mạnh. Những giá trị truyền thống bị xem là đối lập với tư tưởng cách mạng, và việc tuân thủ các quy định của nhà nước trở thành ưu tiên hàng đầu. Do đó, Tết Nguyên Đán dần dần biến mất khỏi đời sống của người dân Triều Tiên.
Phải đến đầu thế kỷ 21, trước những biến đổi của xã hội và sự mong mỏi của người dân, chính quyền Triều Tiên mới quyết định khôi phục lại Tết Nguyên Đán. Quyết định này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong mong muốn bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc
Vì thế, cho đến nay, ngoại trừ Nhật Bản bỏ Tết Nguyên đán và lấy ngày 1/1 theo dương lịch làm ngày đón năm mới thì các quốc gia ở châu Á vẫn giữ Tết Nguyên đán gồm Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên... Các quốc gia này đón Tết Nguyên đán nhưng vẫn có những truyền thống khác biệt.
Đây là một trong số ít những dịp lễ chung của hai miền Nam, Bắc Triều Tiên. Vào sớm mùng 1, học sinh sẽ đến thăm nhà thầy cô giáo thực hiện nghi lễ vái lạy sebae. Những người đàn ông cũng lần lượt tới chúc Tết các gia đình với một chai rượu trong túi và thực hiện nghi lễ sebae với các bậc bề trên. Tục lệ này xuất phát từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước. Trước thời kỳ "Tháng ba đói nghèo" vào giữa những năm 90, chính phủ thường phát cho các gia đình khẩu phần năm mới gồm một chai rượu, dầu ăn, vài lạng thịt cho mỗi người và một ít bánh kẹo nhân dịp Tết Nguyên đán.
Ở một số vùng miền, người ta kiêng kỵ để phụ nữ xông đất. Nếu sơ ý, những vị khách không được mong đợi này có thể nhận lấy sự khó chịu của gia chủ ngay khi họ mới bước ra khỏi. Trên thực tế, phụ nữ hiếm có thời gian đi thăm hàng xóm bởi công việc bếp núc luôn khiến họ bận tối mắt từ 30 Tết.
Người Triều Tiên không có tục lệ ăn canh bánh bao (hay còn gọi là bánh canh gạo) như người Hàn Quốc. Thay vào đó, họ thường dùng songpyeon, một loại bánh gạo có hình bán nguyệt, cùng với những món ăn khác chuẩn bị cho lễ cúng tổ tiên vào sớm mùng 1 (còn được gọi là jesa).
Ở những vùng hẻo lánh hơn, những vị quan chức đứng đầu xã, phường sẽ mang theo những giỏ hoa từ các nông trại để vào thăm thành phố. Những người có công chuyện cũng sẽ đi cùng nhau vào thành phố. Những lẵng hoa kia sẽ được bó lại và bao quanh bức tượng cố Chủ tịch Kim Nhật Thành. Bức tượng lớn luôn tràn ngập hoa vào ngày Tết và hiển nhiên trở thành một điểm chụp ảnh phổ biến. Người dân không có quá nhiều sự lựa chọn khi du xuân, do đó bất kể thanh thiếu niên hay học sinh, những cô gái ăn mặc tươm tất đều sẽ ghé qua tượng cố Chủ tịch để chụp ảnh.
Người Triều Tiên không chỉ đón năm mới một lần, mà ăn Tết tới 3 lần một năm. Họ ăn mừng Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán theo Âm lịch (Seollal) và Tết Chủ thể (Juche) vào ngày 15/4 hàng năm. Lịch Juche lấy ngày sinh của cố chủ tịch Kim Nhật Thành, tức 15/4/1912, là năm thứ nhất và các năm kế tiếp đánh số thứ tự theo đó. Lịch này được áp dụng bắt đầu từ năm 1997, đặt lại là "năm Juche thứ 86".