Từ bản ra phố, rồi trở lại
Tôi là Trang Vương, 27 tuổi, sinh ra và lớn lên ở Phúc Sen - một mảnh đất thuộc huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng, nơi lưu giữ nhiều truyền thống văn hóa lâu đời. Ngoài những làng nghề đã thành danh như làng hương Phia Thắp hay giấy bản Dìa Trên, thì xóm Khào, nơi tôi chào đời, cũng có nghề dệt vải, nhuộm chàm truyền thống của người Nùng An. Nghề ấy đã có từ rất lâu đời, gắn liền với đời sống của bao thế hệ.


Dệt vải, nhuộm chàm là nghề truyền thống gói trọn công sức và sự tinh tế của người phụ nữ vùng cao
Tôi học ngành du lịch, từng có cơ hội đặt chân đến nhiều vùng đất, gặp gỡ nhiều nền văn hóa. Và cũng chính từ những chuyến đi đó, tôi dần nhận ra rằng quê hương mình có những giá trị riêng biệt, không hề thua kém bất kỳ nơi đâu, chỉ là ít người còn giữ, ít người kể lại. Từ đó, tôi quyết định trở về, góp một phần nhỏ bé để giữ gìn và phát huy nghề truyền thống của dân tộc mình. Với tôi, dệt vải, nhuộm chàm không chỉ là một công việc mưu sinh, mà là hồn cốt của cả một cộng đồng.
Tôi quyết định trở về Phúc Sen vào tháng 4 năm nay và bắt tay vào việc học nghề từ các mẹ, các bá trong xóm. Ban đầu tưởng đơn giản, nhưng khi tận tay làm mới thấy nghề này gian nan đến nhường nào. Từ se sợi, dệt vải, ngâm ủ chàm đến phơi từng mẻ vải dưới nắng, mỗi bước đều đòi hỏi sự kiên trì và chính xác. Càng học, tôi càng bị cuốn vào sự tỉ mẩn ấy. Có lúc như quên cả thời gian khi ngồi bên chum chàm đang lên men, ngửi thứ mùi ngai ngái ấy mà thấy thân thuộc lạ thường.


Từng rời bản lên phố, nay Trang trở về quê nhà, tiếp nối người bà, người mẹ giữ màu vải chàm của dân tộc
Từ bông trắng đến sắc chàm dệt từ đất, phơi qua trời
Nghề nhuộm vải chàm ở Phúc Sen gắn liền với đời sống người Nùng An từ hàng trăm năm. Đây không phải loại chàm công nghiệp có thể mua từ nơi khác về mà là chàm thủ công, làm hoàn toàn bằng tay: từ gieo trồng cây chàm, ngâm ủ lên men, lọc bã, đến thu cao chàm, ủ và nuôi chàm, nhuộm vải và làm khô. Mỗi công đoạn đòi hỏi thời gian, sức lực và cả sự kiên định với nghề.
Nghề dệt vải nhuộm chàm của người Nùng An bắt đầu từ hai thứ: bông và chàm. Bông được trồng tại nương, sau khi thu hoạch sẽ được phơi khô, rũ hạt, rồi kéo thành sợi. Người trong bản dùng khung cửi gỗ, tự tay dệt từng hàng vải. Những tấm vải dệt xong sẽ được mang đi nhuộm.


Chàm là một loại cây mất gần một năm mới thu hoạch được. Khi đủ ngày, người ta cắt cây, ngâm vào máng đá hai ngày hai đêm cho cây rữa ra, tạo thành cao chàm. Bã này đem lọc, rồi hòa với nước vôi trong, tạo thành thứ hỗn hợp gọi là chàm - nguyên liệu chính để nhuộm vải.
Vải trắng sẽ được nhuộm với chàm trong khoảng một tháng. Mỗi ngày phải thêm một bát con cao chàm vào chum, khuấy đều tay. Phải làm vậy đều đặn để chàm sống, để màu ngấm sâu vào từng sợi vải. Khi vải chuyển từ trắng sang lam, rồi lam đậm đến tím than là lúc màu đã “chín”. Nhưng để đạt được màu ấy, phải nhuộm đi nhuộm lại đến tám, chín chục lần, mỗi ngày nhuộm vài lượt, không thể vội, cũng chẳng thể làm ẩu.



Công đoạn nhuộm chàm và phơi vải mất khoảng gần một tháng mới cho ra màu chàm chuẩn, đẹp
Những ngày âm u, ẩm lạnh, tôi sốt ruột vì vải phơi không khô. Mà nếu không khô, hôm sau không thể nhuộm tiếp. Thời tiết như một cộng sự bất định của người làm chàm, hoặc là thuận hòa, hoặc là phá hỏng cả một mẻ vải.
Chàm Phúc Sen còn đặc biệt vì màu lam có chiều sâu, không sáng loá nhưng bền, đằm, và càng dùng càng đẹp. Muốn giữ được sắc ấy, người làm phải kiên trì và hiểu rõ đặc tính của từng mẻ chàm, từng thớ vải, độ ẩm của thời tiết và cả tốc độ hong khô dưới nắng.
Một bộ trang phục truyền thống của người Nùng An cần khoảng 10 mét vải. Vải chàm được bán từ 100.000 đến 150.000 đồng một mét, nhưng giá trị lớn hơn nhiều nằm ở công sức bỏ ra và cả câu chuyện được dệt trong đó.


Chàm Phúc Sen còn đặc biệt vì màu lam có chiều sâu, không sáng loá nhưng bền, đằm, và càng dùng càng đẹp
Giữ màu cho đất, giữ nghề cho người
Xã Phúc Sen cũ có duy nhất một dân tộc sinh sống là người Nùng An. Trải qua bao thăng trầm, người nơi đây vẫn giữ được nghề: từ rèn dao, làm hương đến dệt vải chàm. Giữa phố thị đổi thay, vẫn có hơn 10 hộ tiếp tục làm nghề, chủ yếu ở các xóm nhỏ như xóm Khào. Với người Nùng An, vải chàm không chỉ để mặc. Đó là trang phục lễ cưới, là tấm áo ngày hội, là vật phẩm tâm linh. Có người nói: “Một tấm vải chàm đẹp không chỉ thể hiện sự khéo léo mà còn phản ánh phẩm chất đạo đức của người phụ nữ Nùng An”. Tôi nghe câu ấy mà thấy vừa tự hào vừa áp lực, vì người giữ nghề hôm nay không chỉ dệt vải, mà còn phải dệt tiếp tinh thần ấy.
Tôi bắt đầu thử nghiệm những sản phẩm mới từ vải chàm: túi xách, khăn quàng, váy, áo - những món đồ gần gũi với người trẻ. Tôi cũng dựng một không gian nhỏ sau vườn để du khách có thể đến tận nơi, tự tay chạm vào vải, thử nhuộm một lần, nghe mùi chàm thật sự để hiểu nghề không phải bằng mắt, mà bằng trải nghiệm. Tôi tin, nếu giữ nghề đúng cách và không ngừng sáng tạo, sản phẩm thủ công sẽ không lỗi thời. Ngược lại, nó mang theo câu chuyện, và ai cầm sản phẩm đó cũng cầm theo một phần ký ức của Phúc Sen.

Du khách đến trải nghiệm se sợi dệt vải tại nhà của Trang



Bằng cách thử nghiệm những sản phẩm mới như mũ, túi xách... Trang hy vọng câu chuyện về vải chàm sẽ được truyền tải đến những vị khách phương xa
Cuộc sống ở đây không có quán cà phê quen mỗi chiều tan ca, không có những tòa nhà kính sáng rực. Nhưng tôi có một khu vườn, có cây chàm, có mái hiên nhà nhỏ để nhuộm và phơi vải. Ở đó, tôi vẫn ngày ngày lặp đi lặp lại những thao tác tưởng như đơn giản nhưng lại đang dệt nên một hành trình: hành trình giữ lấy màu chàm của quê hương.